Chi tiết bài viết

Ô NHIỄM KHÔNG KHÍ TẠI VIỆT NAM THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN VÀ GIẢI PHÁP CẢI THIỆN

Ô NHIỄM KHÔNG KHÍ TẠI VIỆT NAM THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN VÀ GIẢI PHÁP CẢI THIỆN TRONG GIAI ĐOẠN CẤP BÁCH HIỆN NAY

Ô nhiễm không khí đang trở thành một trong những vấn đề môi trường nghiêm trọng nhất tại Việt Nam. Trong nhiều năm qua, nhiều đô thị lớn như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng… liên tục nằm trong nhóm các thành phố có chất lượng không khí kém, theo thống kê của các hệ thống quan trắc độc lập như IQAir, PAM Air. Có thời điểm, chỉ số AQI ở Hà Nội vượt qua mức 200–300, thuộc ngưỡng “rất xấu” hoặc “nguy hại”, đe dọa trực tiếp đến sức khỏe người dân, đặc biệt là trẻ em, người cao tuổi và người có bệnh nền hô hấp.

Ô nhiễm không khí không còn là nguy cơ xa vời, mà đã trở thành một thách thức hiện hữu, ảnh hưởng đến kinh tế, sức khỏe và sự phát triển bền vững của quốc gia. Sự suy giảm chất lượng không khí gây ra hàng loạt hệ lụy: gia tăng bệnh tật, tăng gánh nặng y tế, giảm năng suất lao động, ảnh hưởng đến du lịch, gây hư hại công trình, đe dọa hệ sinh thái và làm trầm trọng thêm biến đổi khí hậu. Việt Nam hiện nằm trong nhóm các quốc gia chịu tác động nặng nề nhất từ ô nhiễm không khí, theo cảnh báo của WHO và Ngân hàng Thế giới.

Để cải thiện chất lượng không khí, trước tiên cần nhận diện đúng nguyên nhân, hiểu bản chất vấn đề, và từ đó xây dựng hệ thống giải pháp phù hợp với đặc thù khí hậu – kinh tế – xã hội của Việt Nam. Hiện nay, có bốn nhóm nguyên nhân chính dẫn đến ô nhiễm không khí: giao thông, công nghiệp – năng lượng, xây dựng – đô thị hóa và yếu tố tự nhiên – nông nghiệp. Bên cạnh đó, sự hạn chế trong quản lý môi trường đô thị, việc thiếu hệ thống quan trắc đồng bộ và thói quen sử dụng năng lượng hóa thạch lâu năm cũng góp phần làm trầm trọng thêm tình trạng ô nhiễm.

Giao thông vận tải là một trong những nguồn tạo ra bụi mịn (PM2.5 – PM10), NOx và CO lớn nhất. Hiện Việt Nam có hơn 70 triệu phương tiện giao thông, trong đó xe máy chiếm hơn 85%. Phần lớn xe máy sử dụng công nghệ đốt nhiên liệu cũ (Euro 2–3), phát thải lớn, không được kiểm định khí thải thường xuyên. Xe tải, xe khách, xe bus già cỗi tiếp tục lưu thông trong nội đô làm gia tăng nồng độ bụi mịn, đặc biệt trong giờ cao điểm và khi điều kiện khí tượng bất lợi (nghịch nhiệt, độ ẩm cao, gió yếu). Mật độ phương tiện dày đặc tại các trục chính của Hà Nội – TP.HCM khiến bụi và khí độc không thể khuếch tán, tạo ra lớp “sương mù ô nhiễm” thường thấy.

Bên cạnh giao thông, các khu công nghiệp, nhà máy xi măng, thép, nhiệt điện than… là nguồn phát thải lớn, bao gồm SO₂, NOₓ, VOC, CO, CO₂ và bụi mịn. Việc sử dụng than trong sản xuất điện và vật liệu xây dựng vẫn chiếm tỷ lệ cao, trong khi công nghệ xử lý khí thải chưa được nâng cấp đồng đều. Một số cơ sở sản xuất nhỏ lẻ, nằm xen kẽ trong khu dân cư, thường xuyên đốt than tổ ong, dầu DO, phế liệu… mà không có hệ thống xử lý. Điều này làm gia tăng ô nhiễm cục bộ, đặc biệt tại các khu vực ven đô.

Hoạt động xây dựng – phá dỡ – san lấp là một nguyên nhân không thể bỏ qua. Nhiều công trình thi công không che chắn, không phun nước, gây bụi lan rộng. Đất cát từ các xe tải vận chuyển vật liệu xây dựng rơi vãi, không được che phủ, tạo ra nguồn phát tán bụi thứ cấp. Trong điều kiện thời tiết hanh khô, tốc độ gió cao, lượng bụi này có thể vượt mức an toàn 5–10 lần.

Nông nghiệp cũng đóng góp vào ô nhiễm không khí, đặc biệt tại Đồng bằng sông Hồng và Đồng bằng sông Cửu Long. Việc đốt rơm rạ sau thu hoạch, đốt đồng, đốt cỏ, đốt rác nông thôn là nguồn phát thải PM2.5 lớn. Ngoài ra, hoạt động chăn nuôi quy mô lớn phát sinh NH₃, làm tăng khả năng tạo hạt bụi mịn thứ cấp khi kết hợp với các khí NOx, SO₂ trong không khí.
Các yếu tố tự nhiên như nghịch nhiệt, sương mù, độ ẩm cao khiến chất ô nhiễm khó phát tán, bị giữ lại ở tầng thấp, đặc biệt vào mùa đông – xuân tại miền Bắc.

Điều đáng nói là mức độ gia tăng của các nguồn phát thải đang vượt quá khả năng kiểm soát của các đô thị. Hạ tầng giao thông bất cập, tỉ lệ cây xanh trên đầu người thấp, ít hồ nước điều hòa, thiết kế đô thị thiếu thông gió, cùng với tốc độ đô thị hóa nhanh, khiến khả năng tự làm sạch của không khí ngày càng suy giảm.

Bên cạnh các nguyên nhân trực tiếp, còn có các vấn đề thuộc về quản lý: quy hoạch đất đai chưa hợp lý, thiếu và yếu trong kiểm soát khí thải công nghiệp, hệ thống quan trắc chưa phủ đủ, dữ liệu môi trường chưa minh bạch, mức xử phạt vi phạm khí thải còn thấp. Một số địa phương còn phụ thuộc vào báo cáo tự giám sát của doanh nghiệp, trong khi thiếu kiểm tra độc lập, dẫn tới nguy cơ sai lệch.

Hệ lụy của ô nhiễm không khí đối với sức khỏe là hết sức nghiêm trọng. WHO xác định ô nhiễm không khí là “sát thủ thầm lặng”, gây ra hơn 7 triệu ca tử vong sớm mỗi năm trên thế giới. PM2.5 có thể xâm nhập sâu vào phổi, máu và các cơ quan nội tạng, gây ra các bệnh: tim mạch, đột quỵ, ung thư phổi, COPD, hen suyễn, suy giảm miễn dịch… Ở Việt Nam, thống kê của Bộ Y tế cho thấy mỗi năm có hàng chục nghìn ca tử vong sớm liên quan đến ô nhiễm không khí. Gánh nặng kinh tế từ chi phí khám chữa bệnh, giảm năng suất lao động và thiệt hại vật chất là rất lớn.

Trong bối cảnh đó, việc cải thiện chất lượng không khí trở thành nhiệm vụ cấp bách của quốc gia. Không chỉ để bảo vệ sức khỏe người dân, việc giảm ô nhiễm không khí còn liên quan đến uy tín quốc gia, thu hút đầu tư, phát triển du lịch và hội nhập kinh tế. Vậy làm thế nào để cải thiện thực trạng này một cách hiệu quả và bền vững?

Trước tiên, cần cải cách mạnh mẽ trong quản lý nguồn phát thải giao thông. Việc loại bỏ xe máy cũ dưới chuẩn Euro 2, kiểm tra khí thải định kỳ, mở rộng giao thông công cộng, phát triển xe điện là những giải pháp then chốt. Tăng thuế môi trường đối với xăng dầu, thúc đẩy giao thông xanh, hạn chế phương tiện cá nhân tại khu trung tâm, quy hoạch đường dành cho xe đạp – đi bộ là xu hướng tất yếu của các đô thị hiện đại. Khi người dân có lựa chọn giao thông sạch, lượng khí thải sẽ giảm đáng kể.

Tiếp theo, cần quản lý chặt chẽ khí thải công nghiệp. Các nhà máy phải bắt buộc lắp đặt hệ thống xử lý khí thải đạt chuẩn, quan trắc tự động và truyền dữ liệu trực tiếp về Sở TNMT. Những cơ sở gây ô nhiễm kéo dài cần bị đình chỉ hoặc di dời khỏi khu dân cư. Việt Nam cũng cần giảm dần sự phụ thuộc vào than, thúc đẩy năng lượng tái tạo, sản xuất hydro xanh, đầu tư công nghệ carbon capture để giảm phát thải CO₂.

Trong lĩnh vực xây dựng, cần áp dụng tiêu chuẩn chống phát tán bụi: che phủ công trình, lắp lưới bảo vệ, phun sương dập bụi, yêu cầu xe tải chở vật liệu phải che kín, xử phạt nặng hành vi làm rơi vãi đất cát. Ứng dụng vật liệu xanh, công nghệ xây dựng không phát sinh bụi là xu hướng cần nhân rộng.

Ở nông thôn, cần thay đổi triệt để thói quen đốt rơm rạ, rác thải. Có thể áp dụng mô hình thu gom rơm rạ làm phân hữu cơ, trồng nấm, làm viên nén sinh khối. Chính quyền địa phương phải kiểm soát hành vi đốt ngoài trời, tuyên truyền để người dân hiểu tác hại của bụi mịn đối với sức khỏe.

Mở rộng không gian xanh đô thị cũng là một giải pháp quan trọng. Cây xanh hấp thụ bụi, lọc khí, cân bằng vi khí hậu. Việt Nam cần xây dựng thêm công viên, hồ điều hòa, mở rộng không gian rừng nội đô, tăng diện tích cây xanh trên đầu người. Đặc biệt, cần bảo vệ các khu vực trống gió – là các hành lang thông gió tự nhiên, giúp lưu thông không khí.

Công tác quan trắc và dự báo chất lượng không khí cũng cần được nâng cấp. Việt Nam cần một mạng lưới quan trắc dày đặc, công khai dữ liệu theo thời gian thực, giúp người dân có thông tin chính xác để bảo vệ sức khỏe. Đồng thời, dữ liệu minh bạch sẽ tạo áp lực buộc các doanh nghiệp và chính quyền địa phương phải tuân thủ các quy định môi trường.

Ngoài ra, cần nâng cao ý thức cộng đồng. Người dân cần hạn chế đốt rác, hạn chế sử dụng phương tiện cá nhân, bảo dưỡng xe định kỳ, trồng thêm cây xanh, phân loại rác tại nguồn, giảm tiêu thụ năng lượng hóa thạch. Các trường học, cơ quan, doanh nghiệp cần đưa giáo dục môi trường vào hoạt động thường xuyên.

Từ góc độ quốc gia, Việt Nam cần xây dựng lộ trình chuyển đổi sang nền kinh tế carbon thấp, phát triển năng lượng tái tạo như điện gió, điện mặt trời, biomass, thủy triều… đồng thời tăng cường hợp tác quốc tế trong nghiên cứu, mô hình dự báo, tiếp cận nguồn tài chính khí hậu (Green Climate Fund, vốn ODA xanh, các chương trình chuyển đổi năng lượng công bằng).

Với doanh nghiệp, tuân thủ môi trường không chỉ là nghĩa vụ mà là cơ hội để nâng cao thương hiệu, tiếp cận vốn đầu tư ESG, mở rộng thị trường xuất khẩu. Các doanh nghiệp biết tận dụng công nghệ xanh, tối ưu phát thải và minh bạch dữ liệu sẽ trở thành người dẫn đầu trong tương lai.

Cuối cùng, cải thiện chất lượng không khí là một quá trình dài hạn, đòi hỏi sự vào cuộc đồng bộ của Nhà nước, doanh nghiệp và cộng đồng. Chỉ khi các giải pháp được thực hiện đồng bộ – từ giao thông đến công nghiệp, từ xây dựng đến nông nghiệp, từ quản lý đến ý thức người dân – chúng ta mới có thể xây dựng một bầu không khí trong lành, bảo vệ sức khỏe của hàng triệu người và hướng đến một Việt Nam phát triển bền vững, đáng sống cho các thế hệ tương lai.

Ô nhiễm không khí hiện là vấn đề nóng của Việt Nam. Nguyên nhân khiến chất lượng không khí bị suy giảm cũng đã được chỉ rõ. Sự cần thiết phải cải thiện chất lượng không khí cũng rất cấp bách. Vậy làm thế nào để có thể cải thiện thực trạng này?
 

Kiểm soát khí thải: Phòng bệnh hơn chữa bệnh

         Kinh nghiệm từ nhiều nước trên thế giới cho thấy, để có thể cải thiện cũng như bảo vệ kết quả cải thiện chất lượng không khí, nhất thiết phải có sự điều tiết chung từ Chính phủ. Đơn cử, tại Mỹ, ngay từ năm 1970, Chính phủ đã ban hành luật về không khí trong sạch. Theo đó, tất cả các khu vực có dân số trên 50.000 người đều phải có một cơ quan quy hoạch vùng đô thị (MPO). MPO có trách nhiệm thực hiện quy hoạch giao thông bao gồm quy hoạch dài hạn và quy hoạch ngắn hạn tương thích các mục tiêu chất lượng không khí đề ra. Điều này nhằm đảm bảo việc nâng cấp hệ thống giao thông không làm ô nhiễm bầu khí quyển.

        Còn tại Nhật Bản, những quy định pháp luật nghiêm ngặt về tiêu chuẩn phát thải chất thải, kiểm soát ô nhiễm nước, không khí và giám sát ô nhiễm chất độc hại luôn được đặt lên hàng đầu. Hệ thống kiểm soát ô nhiễm quy định rất rõ tiêu chuẩn phát thải, tiêu chuẩn kiểm soát tổng lượng phát thải, tiêu chuẩn về xây dựng và tiêu chuẩn đối với các nồng độ trong môi trường không khí (SO2; NO2; bụi thông thường, bụi đặc thù…). Luật còn đề cập đến những biện pháp ứng phó với các chất ô nhiễm không khí nguy hại, kiểm soát các nguồn lưu động (trong giao thông), quy định về các phương tiện vận tải chạy trên đường. Bên cạnh một hệ thống chính sách nghiêm ngặt, chính phủ và các cấp chính quyền địa phương cũng rất coi trọng chính sách giáo dục, nâng cao nhận thức cộng đồng về bảo vệ môi trường.

Lỗ hổng kiểm soát khí thải quá lớn

      Việt Nam là một trong những quốc gia đang phải đối mặt với rất nhiều thách thức liên quan đến vấn đề ô nhiễm và suy thoái môi trường, trong đó vấn đề ô nhiễm không khí đang ở mức đáng báo động. Thời gian qua Bộ TN-MT cùng với UBND các tỉnh đã đưa ra nhiều giải pháp, nhưng tình trạng ô nhiễm vẫn chưa được kiểm soát. Nguyên nhân là do khung pháp lý nước ta hiện nay vẫn chưa có văn bản pháp luật đặc thù, chuyên biệt về quản lý và kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí. Điển hình, Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 mới chỉ đề cập rất ít đến kiểm soát ô nhiễm không khí, chưa xây dựng được các tiêu chí đánh giá, thực hiện, kiểm soát. Mặt khác, vẫn còn tồn tại hiện tượng chồng chéo về chức năng nhiệm vụ giữa các bộ, ngành trong quản lý. 

      Về hoạt động quan trắc môi trường nói chung và môi trường không khí nói riêng hiện cũng đang tiếp tục duy trì. Tuy nhiên, các chương trình quan trắc mới chỉ tập trung tại các khu vực đô thị, các khu vực gần các khu công nghiệp. Trong khi đó, lại thiếu các chương trình quan trắc tổng thể và định kỳ cho các khu vực nông thôn và làng nghề. Hoạt động kiểm kê và kiểm soát nguồn khí thải cũng chưa thực sự hiệu quả. Hiện tại Việt Nam mới chỉ có 21 trạm quan trắc không khí, nhưng việc kiểm kê nguồn phát thải còn nhiều hạn chế, dẫn đến việc kiểm soát ô nhiễm bụi gặp khó khăn.

     Thời gian qua, Chính phủ đã có một số điều chỉnh nhất định như áp dụng tiêu chuẩn khí thải Euro 2 đối với các phương tiện giao thông cơ giới đường bộ; phê duyệt cho ngành giao thông vận tải Đề án về kiểm soát khí thải mô tô, xe gắn máy tham gia giao thông tại các tỉnh, TP lớn; đưa vào thử nghiệm các phương tiện giao thông sử dụng nguồn nguyên liệu sạch, thân thiện với môi trường nhằm giảm thiểu lượng khí thải độc hại như xe buýt nhanh sử dụng nhiên liệu CNG (loại khí nén thân thiện với môi trường); nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trong đó, tập trung chuyển đổi hiệu quả công nghệ của 500 doanh nghiệp trên toàn quốc nhằm tiết kiệm năng lượng và giảm phát thải khoảng 962.000 tấn CO2… Thế nhưng, những giải pháp trên chưa thực sự tạo thành một hệ thống pháp lý chặt chẽ đủ để kiểm soát toàn diện nguồn thải phát thải gây ô nhiễm không khí.

Hoàn thiện pháp lý, phát huy trách nhiệm cộng đồng

      Khắc phục những lỗ hổng pháp lý liên quan đến kiểm soát khí thải ô nhiễm là điều kiện tiên quyết cần phải làm nếu muốn cải thiện chất lượng ô nhiễm không khí hiện nay. Tuy nhiên, không dừng lại giải pháp quản lý, việc phát huy vai trò tham gia của cộng đồng dân cư trong việc cải thiện thực trạng ô nhiễm môi trường không khí cũng đóng vai trò hết sức quan trọng. Bởi chính họ là những người phải trực tiếp gánh chịu hậu quả của ô nhiễm không khí.

     Do vậy, cần thiết phải đưa cộng đồng tham gia trực tiếp vào hệ thống quản lý môi trường, tham gia trong các công đoạn từ khâu bàn bạc ban đầu đến việc lên kế hoạch thực hiện, triển khai các hoạt động và đánh giá sau khi thực hiện; công khai các thông tin, số liệu liên quan đến tình hình ô nhiễm không khí và các nguồn chính gây ô nhiễm cho từng người dân; xây dựng các cơ chế, dự án cải thiện môi trường cụ thể để thu hút sự ủng hộ, tham gia của cộng đồng; giúp cộng đồng nhận thức rõ tác hại của ô nhiễm không khí đối với sức khỏe cộng đồng cũng như ảnh hưởng của nó tới chất lượng sống của họ. Đặc biệt, các chiến dịch truyền thông lớn cần khẳng định, đối với vấn đề ô nhiễm không khí, người dân không chỉ là nạn nhân mà chính họ cũng là tác nhân. Do đó, vận động người dân thay đổi thói quen sinh hoạt nhằm giảm ô nhiễm môi trường là điều hết sức cần thiết.

CÔNG TY CP TV ĐẦU TƯ VÀ THIẾT KẾ XÂY DỰNG MINH PHƯƠNG

ĐT: (08) 35146426 - (028) 22142126  – Fax: (028) 39118579 - Hotline: 0903 649 782

Địa chỉ trụ sở chính: 28B Mai Thị Lựu - Khu phố 7, Phường Tân Định. TP.HCM 

Địa chỉ văn phòng đại diện: Chung cư B1- Số 2 Đường Trường Sa, Phường Gia Định. TP.HCM

Website: www.khoanngam.net;  www.lapduan.comwww.minhphuongcorp.net;

Email: nguyenthanhmp156@gmail.com ; thanhnv93@yahoo.com.vn

lên đầu trang

CÔNG TY CP TV ĐẦU TƯ VÀ THIẾT KẾ XÂY DỰNG MINH PHƯƠNG

CÔNG TY CP TV ĐẦU TƯ VÀ THIẾT KẾ XÂY DỰNG MINH PHƯƠNG

CÔNG TY CP TV ĐẦU TƯ VÀ THIẾT KẾ XÂY DỰNG MINH PHƯƠNG

CÔNG TY CP TV ĐẦU TƯ VÀ THIẾT KẾ XÂY DỰNG MINH PHƯƠNG

CÔNG TY CP TV ĐẦU TƯ VÀ THIẾT KẾ XÂY DỰNG MINH PHƯƠNG
CÔNG TY CP TV ĐẦU TƯ VÀ THIẾT KẾ XÂY DỰNG MINH PHƯƠNG
Kinh doanh
0903 649 782
Mr Thanh
0903 649 782
info@minhphuongcorp.com.vn